1. Lịch sử phát triển
Nón lá Việt Nam thường được dệt bằng nhiều loại lá khác nhau như lá cọ, lá le, lá rơm, lá tre, lá cối, lá hồ, lá dứa, lá du quy diệp dùng làm nón… nhưng chủ yếu được làm bằng lá nón. Mũ thường có quai bằng vải mềm hoặc nhung, lụa để đeo vào cổ.
Nón lá được làm bằng cách dẹt từng chiếc lá, dùng kéo cắt chéo phần trên, dùng kim xâu
khoảng 24 đến 35 lá lại với nhau một lượt rồi xếp đều trên khuôn nón.
Vì lá nón mỏng và dễ bị mưa lớn làm hỏng nên các nghệ nhân đã tạo ra một lớp giữa hai lớp lá nón bằng bao tre khô, tạo cho chiếc nón sự chắc chắn và bền bỉ.
2. Phân loại
Nón lá Việt Nam là tên gọi chung cho nhiều loại mũ khác như nón ngựa, nón Gò Găng (sản xuất tại Bình Định, làm bằng lá lụi, thường dùng khi cưỡi ngựa);
Nón cụ (loại mũ thường xuất hiện trong các đám cưới ở miền Nam);
Nón Ba tầm (loại mũ phổ biến ở miền Bắc);
Nón bài thơ (ở Huế là chiếc nón lá mỏng màu trắng có hình hoặc vài câu thơ);
Nón dấu (mũ nhọn của thú binh thời phong kiến);
Nón rơm (mũ làm bằng rơm ép cứng);
Nón cời (loại mũ có tua ở mép mũ);
Nón gõ (mũ làm bằng rơm, ghép cho binh sĩ thời phong kiến);
Nón lá sen (còn gọi là nón liên diệp);
Nón thúng (nón tròn giống như chiếc thúng, thành ngữ “nón thúng quai thao”);
Nón khua (mũ của quan lại thời phong kiến);
Nón có phần trên tròn như cái chảo lộn ngược),… [3] nhưng phổ biến nhất hiện nay được dùng để chỉ loại nón có đầu nhọn.